Việc nhỏ không làm thì không thể làm được việc lớn
THUYẾT “CỬA SỔ VỠ”
“Cửa sổ vỡ” là lý thuyết tội phạm học gây tranh cãi xuất phát từ thí nghiệm của nhà tâm lý học người Mỹ Philip Zimbardo.
Năm 1969, nhà tâm lý học Zimbardo bỏ hai chiếc ôtô hỏng và không có biển số lần lượt tại khu dân cư có thu nhập thấp thuộc quận Bronx, thành phố New York và khu dân cư giàu có tại thành phố Palo Alto, bang California.
Chỉ trong 24 giờ, chiếc xe tại quận Bronx bị đập vỡ cửa kính và trộm hết phụ tùng. Ngược lại, chiếc xe tại thành phố Palo Alto vẫn nguyên vẹn trong hơn một tuần. Chỉ sau khi Zimbardo dùng búa tạ đập xe, một số người mới hùa theo.
Tới năm 1982, 30 năm sau thí nghiệm của Zimbardo, kết quả trên được nhắc lại trong bài viết đăng trên tạp chí The Atlantic của nhà khoa học xã hội George Kelling.
Theo Kelling, nếu tại khu vực đô thị đông người xuất hiện biểu hiện của tội phạm và hành vi phản xã hội nhưng lâu ngày không được xử lý sẽ thúc đẩy người dân thực hiện nhiều tội phạm nghiêm trọng hơn.
Kelling lấy ví dụ về tòa nhà có ô cửa sổ bị vỡ nhưng không sớm được sửa chữa. Vì đây là dấu hiệu không ai quan tâm tới tòa nhà, những kẻ phá hoại sẽ có xu hướng tiếp tục phá các ô cửa sổ khác. Cuối cùng, chúng thậm chí có thể đột nhập, chiếm đóng trái phép hoặc đốt lửa nếu không có ai ở trong tòa nhà.
HIỆU QUẢ CỦA THUYẾT “CỬA SỔ VỠ”
Năm 1993, Rudy Giuliani, tân thị trưởng thành phố New York, đã lấy lý thuyết “cửa sổ vỡ” làm cơ sở để triển khai loạt chính sách “cứng rắn” với những tội phạm tương đối ít nghiêm trọng.
Nỗ lực của vị tân thị trưởng cùng phòng cảnh sát New York có vẻ như đã thành công khi số vụ phạm tội ít nghiêm trọng và nghiêm trọng đều giảm rõ rệt.
Giải thích những thay đổi tích cực này, cảnh sát New York hẳn sẽ nói rằng đó là do chính sách của thành phố được cải thiện đáng kể. Những nhà phạm tội học thì quy cho sự thuyên giảm của các hoạt động buôn bán ma túy và tình trạng già đi của dân số. Còn các nhà kinh tế học lại khẳng định rằng đó chính là nhờ những cải cách từng bước của nền kinh tế thành phố trong suốt thập niên 1990.
Thế nhưng, các quan điểm trên không giải thích được lý do tại sao tội phạm ở thành phố New York lại giảm nhanh và mạnh hơn bất kỳ nơi nào khác trên lãnh thổ nước Mỹ và tại sao nó lại chỉ diễn ra trong khoảng thời gian ngắn đến vậy.
Trong cuốn sách The tipping point, tác giả Malcolm Gladwell đã chứng minh “Cửa sổ vỡ” là thuyết đã giúp tình hình tội phạm ở New York thay đổi tích cực.
Tội phạm là hệ quả tất yếu của sự mất trật tự, vô tổ chức. Nếu một chiếc cửa sổ bị phá hỏng, vỡ vụn mà cứ để vậy không sửa chữa thì những người đi ngang qua sẽ kết luận rằng không ai quan tâm và không ai chịu trách nhiệm trước hiện trạng này.
Rồi không lâu sau, nhiều cánh cửa sổ khác sẽ bị đập vỡ, dần dà ý thức về sự vô chủ, hỗn loạn sẽ lan rộng, truyền tải đi dấu hiệu về những gì đang diễn ra.
Malcolm Gladwell trong The tipping point đã viết: “Đừng nên xem nhẹ những chuyện nhỏ. Chúng có thể tạo nên những biến đổi to lớn”.
Nếu có thể tạo nên những thay đổi cho một thành phố thì “những chuyện nhỏ bé” cũng có thể tạo nên những thay đổi cho một đất nước.
Cuộc sống được tạo thành từ “những chuyện nhỏ bé”. Sự lớn lao sẽ diễn ra nếu ta biết làm những việc nhỏ với một suy nghĩ lớn.
Với cuốn sách The tipping point, năm 2005 Malcolm Gladwell đã được tạp chí Time bình chọn là một trong 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất trên thế giới. Và cuốn sách của ông đã làm thay đổi cách tư duy của rất nhiều người trên thế giới.